VƯƠNG QUỐC NHỮNG KẺ LẠ MẶT
Phan_7
Chương 12
Có lẽ là do vừa nhận lời cầu hôn của Nayir nên Katya thấy vô cùng hoang mang khi ngồi vào chiếc SUV cùng với Ibrahim. Nỗi sợ hãi có vẻ gì đó khác biệt so với trước đây, khi cô đi taxi hay trong trường hợp hãn hữu là ngồi cùng xe tuần tra với Osama. Không chỉ đơn giản là câu hỏi Chuyện gì sẽ xảy ra nếu bố mình biết việc này? Mà bây giờ còn là Chuyện gì sẽ xảy ra nếu vị hôn phu của mình biết việc này? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu anh ấy tức giận hay nghi ngờ rồi hủy đám cưới? Và có cả tá các câu hỏi khác nữa rằng Chuyện gì sẽ xảy ra nếu Irbrahim phát hiện ra rằng mình thực sự chưa kết hôn? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu ông ấy báo cáo với Chánh Riyadh? Liệu mình có mất việc như Faiza tháng trước không?
Cô hạ tấm khăn che mặt xuống và ngồi vào băng ghế sau trước khi Ibrahim kịp phản ứng. Hẳn là cô đã cân nhắc hành động làm màu này một tuần trước đó, nhất là cô đang hạ mình xuống một bậc thấp kém hơn và chấp nhận một sự phân biệt. Nhưng giờ thì điều đó là cần thiết. Nếu ai đó bắt gặp cô, ít ra cô có thể nói rằng mình đã ngồi ở băng ghế sau và che chắn đàng hoàng.
Ibrahim có vẻ ngạc nhiên khi vào xe. Ông quay xuống và chăm chú nhìn cô. “Tôi không ngại đâu nếu cô ngồi ghế trước.” Ông nói.
“Tôi thấy ổn, cảm ơn ông.”
Ông ra hiệu về khu vực đỗ xe ở chung quanh họ. “Không có ai đang nhìn đâu.”
“Tôi ổn mà”
Cô có thể nhận thấy điều đó khiến ông bối rối. Cũng dễ hiểu thôi bởi người mà cô đang tỏ thái độ làm màu lại chính là người đàn ông có tư tưởng tự do nhất ở Cục. Ibrahim nổ máy và lái xe ra khỏi khu vực bãi đỗ.
“Tôi đã làm việc với nhiều phụ nữ ở Đội Điệp vụ.” Ông nói. “Rất khó thuê phụ nữ. Họ phải có kinh nghiệm nghiệp vụ cảnh sát, và hầu hết những phụ nữ như vậy lại đã có chồng và chồng họ không thích ý tưởng vợ mình giả làm đó trong vài tháng và tự đặt mình vào vòng nguy nan. Thêm nữa, các ông chồng sẽ phải chăm sóc đám trẻ. Thực tế là chúng tôi đã một lần phải đưa một phụ nữ ra khỏi nhiệm vụ bởi chồng cô ta không làm thế nào đưa con đi bác sĩ được.”
Katya khịt khịt mũi. “Có phải ông đã gặp Sabria như vậy không - khi ở Đội Điệp vụ ấy?”
“Đúng vậy.” Ông nhìn Katya dò xét qua gương chiếu hậu, chăm chú nhìn vào đôi mắt cô. “Chúng tôi đã làm việc cùng nhau, quan hệ của chúng tôi sau đó mới tiến triển, sau khi cô ấy thôi việc.”
Ibrahim đã gọi điện cho Katya từ sáng sớm hôm đó để hỏi cô liệu có sẵn lòng tìm bằng chứng pháp lý ở căn hộ của Sabria không. Hôm đó là thứ Tư và ông mong là việc này sẽ được thực hiện trước thứ Năm, ngày bắt đầu của kỳ nghỉ cuối tuần, khi đó phần lớn hàng xóm của Sabria sẽ ở nhà.
Cô tự nhủ rằng cô sẽ tiếp tục công việc này bởi lẽ nếu có chuyện gì không hay xảy ra với Sabria, cô sẽ cảm thấy khó xử khi biết mình đã không giúp gì cả. Tuy vậy, cô thực sự tham gia vào vụ này là vì Ibrahim phụ trách vụ giết người hàng loạt đó, và nếu đây là việc cô phải làm để tham gia điều tra thì cô sẽ làm.
Bên cạnh cô trên băng ghế sau là một chiếc túi vải len thô đựng bộ dụng cụ lưu động dùng tìm kiếm bằng chứng. Cô đã nâng niu cái túi màu đen này hàng tuần nay rồi, nhét đầy trong đó nào những chiếc hộp nhựa nhiều lớp mới tinh, nào túi, ống tiêm, tất cả những dụng cụ cô có thể lấy được ở phòng thí nghiệm. Cô đã tính là sẽ sử dụng nó trong một tình huống khẩn cấp khi Cục có lệnh gọi cô ra hiện trường. Nhưng rốt cuộc thì sáng nay lại là lần đầu tiên nó được dùng.
“Ông đã xem qua đơn xin việc của Sabria chưa? Tài liệu tôi để lại trong hộp thư của ông ấy?” Cô hỏi.
“Có.” Ông đáp. “Nó có vẻ giống chữ viết tay của cô ấy.”
“Như vậy là cô ấy đã điền vào mẫu đơn.” Katya nói. “Nhưng người khác đã nhận công việc ấy?”
“Đó là phán đoán hợp lý nhất của tôi.” Ông trả lời. “Tuy tôi không thể nói với cô là tại sao.”
Qua cách mà ông đánh xe vào khu đỗ dưới tòa nhà của Sabria. Katya có cảm giác là ông đã làm việc này tới hàng nghìn lần rồi. Ông ngỏ ý muốn mang giúp cô bộ đồ nghề nhưng cô muốn tự mang, và họ vào thang máy để lên tầng tư.
“Tôi vẫn cho rằng ông nên khai báo về trường hợp mất tích của cô ấy.” Katya nói. “Nhưng ẩn danh, thế là ổn.”
“Cảnh sát sẽ không làm được việc gì mà tôi không thể làm đâu.”
“Vậy thì sao không tìm sự giúp đỡ chứ?”
“Tôi đang xin giúp đỡ đấy thôi.” Ông đáp.
Ibrahim mở cửa bằng chìa khóa của mình. Căn hộ của Sabria nhỏ nhắn, được trải thảm trắng sáng với những đồ đạc giản đơn. Điều đầu tiên Katya nhận thấy đó là việc gần như thiếu vắng những thứ mang dấu ấn cá nhân hay nỗi hoài hương. Không có bức ảnh gia đình hay bạn bè nào. Không có sách hoặc đồ trang trí lặt vặt. Không có gì khác ngoài hai chiếc sô-pha đôi và một chiếc ti vi trên chiếc tủ có ngăn kéo. Một vài chiếc cốc rỗng bày bừa trên bàn cà phê. Katya tha thẩn bước vào bếp, phòng ngủ và phòng tắm. Căn hộ có phạm vi dành cho một hộ gia đình, và ngoài vài thứ đồ trong nhà vệ sinh và quần áo trong tủ, chẳng có gì đặc biệt về căn hộ này cả. Bất cứ ai cũng có thể sống ở đây.
“Cô ấy không có bức ảnh nào hoặc vật dụng cá nhân nào sao?” Katya hỏi.
Bọn họ đang đứng trong bếp. Ibrahim nhìn quanh như thể với ông sự thiếu vắng của những đồ vật này mới xảy ra thôi. “Cô ấy không có nhiều đồ đạc lắm.” Ông nói. “Cô ấy lưu tất cả ảnh trên máy tính của mình.”
“Vậy nó đâu?”
Ông đưa Katya quay ra phòng khách và mở cửa tủ dưới ti-vi. Có một tấm thảm gập để cầu nguyện, một lọ nước hoa, và vài băng video cũ kỹ.
“Nó biến mất rồi.”
“Máy tính xách tay ấy à?”
“Đúng vậy.” Ông đứng dậy với vẻ run rẩy.
Katya ngồi xuống ghế sô-pha và bắt đầu phủi bụi chiếc bàn cà phê để lấy dấu vân tay.
“Sabria không mang theo nhiều đồ đạc khi đến Jeddah.” Ibrahim nói. “Và mọi thứ cô ấy có đã mất khi cô ấy rời bỏ tay chủ đầu tiên.”
“Ông ta là ai vậy?”
“Cô ấy đã làm giúp việc trong một năm, đó là công việc bị ngược đãi nên cô ấy đã bỏ trốn.”
“Nhưng đã vài năm rồi, phải vậy không?”
“Khoảng năm năm trước.”
“Vậy cô ấy phải có cả núi thời gian để tích nhiều đồ đạc hơn thế này chứ” Katya nói.
“Cô ấy không hẳn là người hay mua sắm.”
“Làm thế nào cô ấy trả được tiền thuê căn hộ này?”
“Tôi là người trả.” Ibrahim nói. “Tôi trả tiền cho tất cả mọi thứ, bao gồm tiền điện thoại, tiền ăn, và…bất cứ gì cô ấy cần, cũng không nhiều tiền lắm.”
Katya gật đầu.
“Cô đang nghĩ gì vậy?” Ông hỏi. “Tại sao cô ấy lại đi làm trong khi tôi lo cho cô ấy mọi thứ phải không?”
“Đại loại là như vậy. Vấn đề là, cô ấy không hề làm việc. Ít ra là ở nơi cô ấy đã nói. Nhưng giả định là điều đó đúng đi nữa, thì ông nghĩ cô ấy làm gì với số tiền kiếm được. Cô ấy không tiêu gì cả. Điều đó không khiến ông lấy làm lạ sao?”
Ông nhún vai. “Tôi chỉ cho rằng cô ấy đang tiết kiệm tiền.”
“Đã bao giờ ông hỏi cô ấy chưa?”
“Không hẳn.” Ông bước trở vào bếp. Katya đã làm sạch bụi những chiếc cốc trên bàn cà phê để tìm dấu vân tay và nghĩ đến bố mình, người cũng có phản ứng tương tự khi phải đối mặt với những câu hỏi khó bằng cách rút vào trong bếp và tìm thứ gì đó ăn.
“Vẫn còn sữa trong tủ lạnh.” Ông nói khi trở ra phòng khách.
Cô ngẩng lên.
“Nguyên một lít. Ngày nào cô ấy cũng uống sữa. Nếu có ý định rời đi thì cô ấy đã không mua sữa.”
“Không ai trong gia đình ông biết chút nào về việc ông gặp gỡ cô ấy sao?” Katya hỏi.
Cô nhận ra một chút đắn đo. “Phải”
“Ông hoàn toàn chắc chứ?”
“Chắc.” Giờ thì ông lại làm ra vẻ bối rối của một người cha. “Cứ tin tôi đi, nếu có bất cứ ai biết chuyện này, thì hẳn quãng đời còn lại của tôi lúc này đã tan nát rồi.”
“Thế còn bạn bè hay đồng nghiệp của ông?”
“Chúng tôi vô cùng thận trọng giấu kín chuyện này trước mắt mọi người.” Ông nhìn cô với ánh mắt khổ sở. “Nó không hoàn toàn hợp pháp, cô cũng biết đấy.”
“Thế còn hàng xóm?” Katya hỏi.
“Họ hoàn toàn không quan tâm”
“Ông gặp gỡ cô ấy lâu chưa?”
“Được hai năm rồi.”
“Tại sao ông không cưới cô ấy?”
“Vì cô ấy đã kết hôn, với cái tên đã cưỡng hiếp cô ấy và kẻ mà cô ấy không bao giờ muốn gặp lại.”
Katya chậm rãi gật đầu.
Ibrahim ngồi xuống ghế sô-pha. “Tôi hiểu cô đang nghĩ gì, Điều gì sẽ xảy ra nếu chỉ là cô ấy bỏ đi?”
“Ông phải chấp nhận, có thể là vậy, kể cả với phần sữa còn lại trong tủ kia đi chăng nữa. Đôi khi con người ta có những quyết định bột phát.”
“Hẳn rồi.” Có vẻ như ông không thể thấy thoải mái trên chiếc trường kỷ nên ông đứng lên và bước về phía cửa sổ trước nhà. Ông đứng ở sát cạnh và nhòm qua khe mà tấm chắn gồ không hoàn toàn khít với khung cửa. “Chúng tôi thậm chí còn không mở cửa sổ.” Ông vừa nói vừa ra hiệu về phía tấm chắn đó. “Chúng tôi đã nhờ người lắp nó và lúc nào cũng đóng nó lại. Chúng tôi hầu như không bao giờ ra ngoài ăn uống, nhưng thỉnh thoảng có đi đến những bãi biển tư nhân. Chúng tôi cố gắng không gọi cho nhau quá nhiều, và dùng bí danh khi gọi điện. Trong điện thoại của tôi, tôi lưu tên cô ấy là Muhammed. Thậm chí còn không có họ. Chúng tôi rất cẩn trọng.”
Đối với Katya như thế khác nào bị cầm tù.
“Đúng vậy” Ông nói tiếp. “Có lẽ cô ấy đã chán ngán chuyện này rồi. Dù sao đi nữa cô ấy chưa bao giờ giống người Ả rập cả. Cô ấy không thể hiểu sao mọi người ở đây lại hành động như vậy. Cô ấy được nuôi dạy như một tín đồ Hồi giáo. Cô ấy cho rằng mình là một phụ nữ Hồi giáo ngoan đạo, cho đến khi cô ấy đặt chân lên thành phố nào. “Nơi này có thánh dịa Mecca.” Cô ấy vẫn nói thế. “Nhưng con người ta không hành xử giống với tôn giáo của em.” Điều đó đã khiến cô ấy thất vọng.”
Katya đã làm sạch bụi và đứng dậy. “Tôi sẽ kiểm tra phòng ngủ.”
Ibrahim bước tới và đứng chắn đường cô. “Tôi đã nghĩ về tất cả những điều này. Tôi đã nghĩ đi nghĩ lại biết bao nhiêu lần rồi. Tôi chắc chắn đã có chuyện không hay xảy ra. Linh cảm của tôi mách bảo tôi như vậy, và khi nào linh cảm nói với tôi điều gì đó thì thường là đúng. Tôi tin như vậy. Nhưng lúc này thì… Tôi không biết nữa.”
“Vẫn còn một khả năng mà ông chưa tính đến.” Katya nói.
“Hãy tin tôi, tôi đã tính hết tất cả rồi.”
“Vậy ông đã nghĩ đến có thể việc này liên quan đến vụ án đó?”
“Vụ án giết người hàng loạt sao?”
“Đúng vậy.”
Ibrahim hắng giọng. “Thôi được, có, nó có lướt qua trong suy nghĩ của tôi.” Ông lắc đầu. Katya có thể thấy ông đang chán nản, một nửa tâm trí ông vẫn băn khoăn. Nếu cô ấy đã bỏ đi thì sao?
Cô kiểm tra phòng ngủ, nhưng nó cũng được trang trí đơn điệu như những căn phòng khác.
Quay ra, cô nhận thấy có vật gì đó lấp lánh ánh lên trên tấm thảm trải hành lang bên ngoài cửa căn hộ. Trông nó như một cái đinh. Cô cúi người xem xét kỹ nó và thấy vết bẩn của thứ gì đấy. Cô vội vàng mở hộp dụng cụ, lấy một miếng gạc.
“Có máu.” Cô nói. Ibrahim quỳ xuống để xem. Chiếc đinh bị kẹt dưới sàn nhà. Ai đó đã đạp chân lên nó. Katya xem xét kỹ phần mũ nhựa bé xíu phía dưới chiếc đinh. Có vẻ nó bị rơi ra từ một đôi dép xỏ ngón hoặc một loại xăng-đan rẻ tiền. “Chắc chắn nó là của người nào đấy đã đến căn hộ này.” Cô nói. Họ đang ở cuối hành lang, không có nhà hàng xóm nào gần đây.
“Có thể là máu của cô ấy.” Ibrahim nói.
“Cô ấy có đi xăng đan không?”
“Có. Lúc nào cũng vậy.”
Họ đứng dậy. “Chỉ là đề phòng.” Katya nói. “tôi sẽ phải thử DNA của ông nữa.”
Ibrahim gật đầu và há miệng để thấm ướt tấm gạc.
Chương 13
Ibrahim lái xe đưa cả hai người hướng về phía nam tới khu ngoại vi Kandara. Ông đỗ xe gần khu gầm cầu đường Sitteen, một cây cầu vượt trên con đường cao tốc khổng lồ. Khu vực gầm cầu chính là một bến xe bus nhộn nhịp.
Phía dưới cây cầu, trên con đường dành cho người đi bộ bằng bê-tông khá rộng là khu nhà ổ chuột mà Katya chỉ có thể thấy trên những cảnh quay của bản tin thời sự - và ngay cả như vậy đi nữa, thì chỉ có trong những đoạn phim về khu vực nghèo khổ, tuyệt vọng giống những khu ổ chuột ở Brazil hay những vùng phi luật pháp ở châu Phi, nơi mà con người bị đối xử tàn tệ còn hơn cả con vật. Vậy mà nó có ở đây sao, tại một trong những thành phố giàu nhất của nước Ả Rập Xê-út này?
Phần lớn người dân Kandara là phụ nữ, và nhận xét qua gương mặt - hầu hết họ không che mặt - bọn họ chủ yếu là người Indonesia và Philippiness, tuy cũng có người châu Phi, người Ấn Độ và người từ các nước châu Á khác. Có ít nhất một nghìn, có lẽ nhiều hơn, những khu nhà nằm trải dài thành khối, phần lớn dựa lưng vào những bức tường bê tông nằm trong những khu vực râm mát. Những tấm kim loại lượn sóng tạo thành những mái nhà ở chỗ này chỗ kia. Một số người dừng lên nơi trú ẩn bằng những chiếc hộp cũ, chủ yếu chỉ để che chắn khỏi cái nắng. Các bà mẹ ngồi ôm con trong lòng, trong khi những người đàn ông nằm ngay trước họ trên những tấm bìa các-tông hoặc những tấm chăn cũ rách. Cảnh sát không có thống kê về tội phạm ở những khu vực ngoại vi khác nhau, nhưng đây là một trong những khu khét tiếng tồi tệ nhất. Nhờ sự có mặt của lãnh quán Philippiness mà vài khu nhà phía dưới gầm cầu, tất cả đã được tập trung ở khu vực này nhiều năm nay, đang chờ đợi được cho phép rời đi.
“Họ nói phần lớn những người ở đây đã ở lại quá thời hạn thị thực hành hương.” Katya nói.
“Chắc vậy, đó là cách mà một số người vào được đát nước này, nhưng hãy quan sát họ như là một nhóm người. Cô nhận thấy điều gì trước tiên?”
“Bọn họ phần lớn là phụ nữ.” Katya nói.
“Đúng…”
“Và đối với phụ nữ khó có thể hành hương khi chỉ có một mình.”
“Chính xác. Phần lớn những phụ nữ này là người giúp việc bỏ trốn.” Ibrahim nói.
Ông im lặng một lúc lâu khiến cho Katya thấy cần phải hỏi: “Làm sao ông biết họ là những ngưới giúp việc?”
“Đây chính là nơi chúng tôi tìm được Sabria.”
“Khu vực này đã có ở đây từ năm năm trước sao?” Katya hỏi.
“Đúng vậy, nhưng không tệ đến thế này.” Họ chăm chú nhín những con người phía trước đám đông, những người phụ nữ chạy loanh quanh trong những tấm áo choàng đen nhếch nhác, cách ăn mặc của họ rõ ràng đã thể hiện điều đó.
Sẽ không mất nhiều thời gian để đi đến kết cục lang thang trên đường phố. Những người giúp việc, quét đường, làm vườn, nhiều người trong số đó đã đến đây với hy vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn chứ không phải một hệ thống nô dịch nó giao kèo. Một kẻ môi giới có thể đưa người lao động vào đất nước này với một khoản phí - mười nghìn riyal hoặc hơn thế. Một cái giá đủ cao, và cứ cho là người lao động được trả lương, thì cũng phải mất đến mười năm họ mới trả hết số tiền đó. Chính vì vậy mà người sử dụng lao động sẽ trả khoản phí này, và người lao động phải thực hiện nghĩa vụ cho đến khi khoản nợ đó được thanh toán.
Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu họ không thích công việc? Điều gì sẽ xảy ra nếu chủ không cho họ ăn? Điều gì sẽ xảy ra nếu chủ của họ không cho phép họ dời khỏi nhà hoặc gọi điện cho gia đình hay thậm chí là nói chuyện với người môi giới đã đưa họ đến đây? Điều gì sẽ xảy ra nếu họ bị cưỡng hiếp hoặc bị bóc lột? Có rất ít điều luật bảo vệ quyền lợi của họ - hầu hết các điều luật bảo vệ quyền lợi cho người chủ, tránh để khoản đầu tư của người đó bị thua thiệt, vì đã mua họ. Lựa chọn duy nhất của những người lao động đó là bỏ trốn, và kết cục là họ ở đường Sitteen này, khẩn cầu lãnh sự quán cấp cho hộ chiếu mới, thậm chí là một chứng nhận tạm thời, và một chiếc vé máy bay để về nhà. Họ đứng xếp hàng để chờ ba chiếc xe bus ít ỏi chỉ đỗ ở Sitteen vài lần một tuần và đưa họ đến Phòng Hộ chiếu do Ả Rập Xê-út bảo trợ để cố giải quyết tình trạng vất vưởng này.
Họ đánh nhau để được lên xe bus, và thậm chí nếu họ không thể lên được xe bus họ vẫn đánh nhau, bởi nếu cảnh sát cho rằng họ gây rắc rối, họ sẽ bị gửi trả về quê nhà trước tiên. Nếu không đủ rắc rối thì họ chỉ đơn giản là phải nộp phạt vì đã ở quá thời hạn thị thực và bị tống vào một buồng giam mà ở đó họ sẽ khó có thể ngóc đầu lên được nếu không có sự can thiệp của hoàng gia. Và họ cầu Chúa để cuộc đời mình không chấm hết trong một khu giam giữ của lãnh sự quán, nơi họ có thể bị đẩy vào một căn phòng và bị bỏ mặc đến khi thối rữa ra. Chỉ mới vài tuần trước năm người Ethiopia đã bị khóa trong buồng vệ sinh không có cửa sổ, và đến sáng thì chết ngạt.
Tạ ơn Chúa vì những nhà thờ Hồi giáo hằng ngày đều mang thực phẩm và nước đến khu Kandara. Người ta không thể tự an ủi mình bằng sự thật rằng sau vài ngày nữa những chiếc xe bus đó xẽ quay trở lại. Số người đổ về khu vực cây cầu này như nước chảy từ cái vòi không thể khóa. Anh có hứng đến bao nhiêu xô thùng thì nước vẫn tuôn đều. Chỉ ngay sau khi những chiếc xe bus đó lăn bánh khu vực này lại đầy ắp người như cũ.
“Ông nghĩ cô ấy có thể ở đây sao?”Katya hỏi.
“Không. Nơi này là một cái hang chuột. Tháng vừa rồi đã hai lần cảnh sát phá tan một mạng lưới mại dâm. Nhưng vấn đề mà chúng ta quan tâm là khoảng năm mươi phần trăm những người mất tích ở Jeddah hoặc đến đây hoặc bị mất tích ở đây.” Ông nhấc cặp tài liệu ở dưới sàn ghế lên và lướt qua một tập giấy rồi đưa nó cho Katya. Đó là những bản phác họa về các nạn nhân tìm được ở sa mạc. “Tôi nghĩ đây sẽ là nơi lý tưởng nhất để nhận diện các nạn nhân còn lại. Việc này với cô ổn chứ?”
“Vâng. Tất nhiên rồi.”
Ibrahim ra khỏi xe và Katya theo ông băng qua đường. Điều đầu tiên cô nhận thấy là mùi hôi thối, một mùi xú uế nồng nặc của những cơ thể dơ bẩn, của thực phẩm thối rữa, và những đống phân người dọc theo một cía rãnh nhỏ chạy dưới đường hầm, tất cả đều bốc mùi dưới cái nắng oi ả. Cô kéo chiếc mạng che mặt che ngang mũi và cố gắng hít thở thật nhẹ, nhưng mùi hôi thối vẫn nồng nặc, đủ khiến cô ứa nước mắt. Dưới chân cầu vượt không khí có mát mẻ hơn một chút nhưng hôm đó là một ngày lặng gió và mùi xú uế kẹt tắc ở khắp nơi.
Bọn họ đi quẩn quanh trong đám đông suốt hai giờ đồng hồ, cái nóng, mồ hôi và nỗi thất vọng như vô cùng tận. Ibrahim đứng trong tầm nhìn của Katya, nhưng cô không bao giờ để nhìn vào ánh mắt ông. Bọn họ đã đi sâu vào trong khu vực lều tạm khi cô đến gần người phụ nữ đang khom người bế đứa con nhỏ.
“Xin lỗi, tôi đang tìm những người này.”
Người phụ nữ liếc nhìn những bức hình. “Chưa bao giờ thấy họ. Thử hỏi Aunie xem.” Bà ta ra hiệu về phía một phụ nữ ở bên rìa đường. Aunie là một phụ nữ nhỏ bé, người Châu Á, mái tóc đen cắt theo hình cái bát. Bà ta đang nằm nghiêng trên một chiếc ghế bằng cây liễu gai màu nâu sắp gãy, nhưng lại đẹp nhất trong cả khu này. Bà ta mặc áo sơ-mi ngắn tay vẻ thức thách và quần ống rộng cắt ngang gối. Dưới chân bà ta là đôi dép xỏ ngón bằng nhựa.
Bà ta không ngồi dậy khi Katya đến gần.
“Xin lỗi.” Katya lên tiếng. “Tôi đang tìm những người phụ nữ này.”
Cô chìa ra những bức ảnh phác họa, và một cách chậm rãi Aunie ngồi dậy.
“Cô là cảnh sát à?”
“Đội Trọng án.”
Người phụ nữ gật đầu. “Vậy là bọn họ đã chết?”
“Bà có biết họ không?”
Người phụ nữ không nói gì. Bà ta thò tay vào cái bao nhựa cũ sờn ở dưới chân và bắt đầu lục lọi. Katya thấy bà ta lôi ra một mảnh vải cáu bẩn, dùng nó lau mồ hôi trên mặt và cổ.
“Cô sẽ bắt tôi chứ?” Bà ta hỏi.
“Không nếu bà không muốn vậy.”
Aunie mỉm cười với vẻ chua chát hơn là thích thú. “Tôi chưa từng thấy bọn họ.” Bà ta nói rồi lại nằm xuống.
“Có lẽ một ly cà phê sẽ giúp bà tỉnh táo hơn chăng?”
Người phụ nữ đó nhìn cô.
“Hay bữa ăn trưa?”
Sau một chút đắn đo, Auine ngồi dậy. “Không.” Bà ta nói. “Hôm nay tôi ăn rồi. Nhưng tôi cần tiền cho bữa trưa ngày mai.”
Katya gật đầu. “Cho tôi biết tên của họ.”
Người phụ nữ liếc nhìn và với tay về bức phác họa. Bà ta chau mày trong khi nhìn kỹ nó. “Có vẻ giống Mahal.”
“Mahal có họ không?”
Aunie lắc đầu. “Không nhớ. Cô ta là người Philippiness.” Bà ta gạt bức phác họa về phía Katya nhưng cô không cầm nó lại ngay.
“Bà có biết cô ta làm việc gì không?”
“Không.” Auine khịt khịt mũi tỏ vẻ mỉa mai. “Không có công việc gì cả. Ở đây sao? Cô nghĩ đây là đâu? Một khách sạn chăng?”
“Trước khi cô ta đến chỗ cầu này.” Katya nói có phần nôn nóng. “Bà có biết cô ta làm gì không?”
“Không.”
“Thế còn tiền ăn trưa cho ngày kia thì sao?”
Aunie khịt khịt mũi lần nữa. “Được rồi, hình như cô ta làm giúp việc thì phải. Tôi không nhớ nữa. Một gia đình tàn bạo.” Bà ta vẩy vẩy tay.
“Và tại sao cô ta lại ở khu vực cầu này? Bọn họ có ngược đãi cô ta không?”
“Dĩ nhiên là bọn họ có ngược đãi cô ta rồi.” Bà ta nói, và lần đầu tiên những lời bà ta nói nghe có vẻ dối trá. “Cô ta đã trốn chạy khỏi bọn họ. Tất cả bọn họ!”
Katya gật đầu và cầm lại bức phác họa. “Vậy còn bà?” Cô hỏi. “Sao bà lại ở đây?”
Aunie nhắm mắt lại và ngồi lại ghế. Chiếc ghế lảo đảo lắc lư. “Phần lớn những người ở đây có chung vấn đề.”
“Không có hộ chiếu?” Katya hỏi.
“Không!” Aunie ngồi thẳng dậy và mở mắt. “Họ có hộ chiếu chứ. Nhưng bọn chủ không cho phép họ ra đi. Họ cần sự cho phép. Và nếu họ bỏ trốn thì không lấy lại được hộ chiếu. Do đó chính người Ả Rập Xê-út đã gây ra rắc rối! Cô không thể mua vé máy bay mà không có thư giới thiệu của ông chủ. Cô cần sự cho phép của ông chủ mới được ra đi sao? Cái kiểu quốc gia gì mà lại quái đản như thế chứ?”
“Vậy là Mahal không được chủ cho phép ra đi?”
“Không, cô ta không được phép. Nếu có ai giết cô ta thì chính là tay chủ ấy. Tôi đảm bảo vậy.”
“Và bà không biết người chủ đó là ai sao?”
“Không nhớ. Có quá nhiều cái tên. Mà sao tôi phải nhớ chứ?”
Katya mở xắc tay và lấy ra tờ hai mươi riyal. Cô gập nó và nhét vào chiếc túi của Aunie.
Katya thấy kiệt sức. Ibrahim đã không gặp may trong việc nhận diện bất kì nạn nhân nào, và với cái tên Mahal họ cũng không thể làm gì nhiều ngoại trừ việc thông báo cho các sĩ quan cấp dưới chịu trách nhiệm lấy thông tin căn cước từ các lãnh sự quán.
Khi gần về tới văn phòng, họ dừng lại để uống nước trái cây tại một ki-ốt bát giác được trang trí bằng những tấm logo màu xanh dương của Pepsi. Ibrahim đi mua đồ uống trong khi Katya chờ trong xe, vẫn cực kỳ hoang mang vì sợ ai đó bắt gặp. Cô ngồi gần sát lỗ thông khí của hệ thống điều hòa nhiệt độ ở băng ghế sau hết mức có thể và để cho khí mát thổi thẳng qua khăn trùm đầu. Khi Ibrahim quay lại, ông mang theo hai chai nước quả và hai hộp nhựa nhỏ đựng trái cây xắt miếng; ông đưa cho cô mỗi loại một thứ.
“Cảm ơn.” Bố, cô đã muốn thêm vào từ đó. Ông bắt đầu khiến cho cô cảm thấy ông giống những người bạn của bố mình - hai hay ba người mà cô đã chuyện trò và thực tế có quý mến. Bọn họ có cách để xoa dịu những căng thẳng gây ra do giới tính theo lối gia trưởng thường gặp luôn khiến cô cảm thấy hình thức và kỳ quặc.
Thay vì về văn phòng, ông đi thẳng về hướng Corniche. Cô nghĩ có thể họ đang trở lại căn hộ của Sabria, nhưng ông lái về phía nam cho đến khi gặp một bãi đỗ xe bên bở biển gần như vắng tanh. Ông đánh xe vào bãi và hướng quay ra biển, vẫn để động cơ nổ để điều hòa tiếp tục làm dịu bớt cái nóng. Ông mở hộp trái cây và bắt đầu ăn.
Katya mở hộp của cô và đưa một miếng dưa hấu qua tấm khăn trùm đầu.
“Có lẽ cô nói đúng.” Ibrahim nói. “Tôi nên thông báo về trường hợp mất tích của cô ấy.”
“Tôi nghĩ ông nên làm vậy.”
“Nhưng trước hết tôi phải xóa sạch mọi dấu vết của chính tôi ở căn hộ của cô ấy đã.” Ông nói. “Cô nghĩ sao về cơ hội làm việc đó?”
“Ông phải thuê một người. Ý tôi là một người chuyên nghiệp. Sẽ có rất nhiều việc phải làm.”
Bọn họ tiếp tục ăn, cô hiểu là cả hai đang suy nghĩ về một việc. Nếu thông báo vụ mất tích của Sabria thì bọn họ sẽ buộc Ibrahim vào tội ngoại tình. Sẽ là vậy, nếu cảnh sát đánh giá vấn đề đủ nghiêm trọng để đưa một đội pháp y đến căn hộ của cô ấy. Sabria từng làm việc cho cảnh sát nên khả năng họ xem xét tỉ mỉ căn hộ đó là rất lớn.
“Tôi sẽ tìm thuê một tay dọn dấu vết.” Ông nói. Ông thu dọn mấy chiếc hộp nhựa và chai rỗng lại rồi ném qua cửa sổ. Ông vào số xe.
“Cám ơn ông đã để tôi hỗ trợ trong vụ này.” Cô nói. “Ý tôi là vụ giết người hàng loạt. Tôi mong được tham gia vụ đó.” Cô hy vọng là mình đã lên tiếng đúng thời điểm, chứ không phải một sự ngỏ lời liều lĩnh.
Ông gật đầu. “Tôi sẽ giao thêm việc cho cô nếu có thể, nhưng hiện giờ tôi có trách nhiệm theo dõi các diễn biến ở sở. Tôi phải đảm bảo đội của mình hoạt động có tổ chức - ít nhất cho đến khi Chánh Thanh tra gạt tôi ra khỏi vụ này, mà tôi nghĩ rất có khả năng đấy. Tất nhiên là tôi đã bị quẩn trí về toàn bộ việc với Sabria. Và đó thực sự mới là mối quan tâm của tôi lúc này. Để bắt được hung thủ cần có thời gian. Việc tìm kiếm một người mất tích gấp gáp hơn thế nhiều. Tôi không thể thổ lộ điều này với bất cứ ai, và có thể là ích kỷ nhưng đó là sự thật.” Ông nhắm mắt lại một lúc rồi mở ra nhìn cô. “Tôi xin lỗi, tôi hiểu cô muốn tham gia vụ đó, và tôi nghĩ cô cũng nên làm vậy. Nhưng còn rất nhiều việc phải cân nhắc nữa.”
“Chắc chắn rồi.” Cô vừa nói vừa mong là giọng mình nghe có vẻ bình thường. “Tôi hiểu mà.”
“Tôi thực sự cảm kích sự giúp đỡ của cô.”
Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian